logo logo

The next-generation blog, news, and magazine theme for you to start sharing your stories today!

The Blogzine

Save on Premium Membership

Get the insights report trusted by experts around the globe. Become a Member Today!

View pricing plans

New York, USA (HQ)

750 Sing Sing Rd, Horseheads, NY, 14845

Call: 469-537-2410 (Toll-free)

hello@blogzine.com
Học

Tâm lý học nhân văn -- hiện sinh

Phương pháp tiếp cận nhân văn hiện sinh phát triển từ giữa thế kỷ XX cùng lúc ở cả Mỹ và Châu Âu. Sự phát triển của phương pháp này như một lực lượng thứ ba trong TLH nhằm chống lại hai trường phái n…

avatar
Home

Nhà thiết kế Web


  • 22/10/2021
  • Views

Phương pháp tiếp cận nhân văn hiện sinh phát triển từ giữa thế kỷ XX cùng lúc ở cả Mỹ và Châu Âu. Sự phát triển của phương pháp này như một lực lượng thứ ba trong TLH nhằm chống lại hai trường phái nổi bật đã giữ quan điểm cực đoan về bản chất con người là phân tâm học cổ điển và hành vi cổ điển. Hiện nay phương pháp này khá thịnh hành ở Châu Âu với những cách tiếp cận tham vấn có hiệu quả rất được ưa thích như tham vấn tập trung vào cá nhân (thân chủ trọng tâm - Carl Rogers); tham vấn nhóm; tham vấn tập trung vào quan hệ liên cá nhân, tham vấn gia đình, tham vấn Gestalt, tham vấn hiện sinh.

Phương pháp tiếp cận nhân văn - hiện sinh xuất phát từ trường phái tâm lý học nhân văn - hiện sinh cho rằng sự lo lắng là một phần tự nhiên của cuộc sống cũng như là thông điệp về sự tồi tại của con người. Sự quyết định của chúng ta liên quan đến cách chúng ta sống, cư xử với người khác. Vì thế, những NTV theo trường phái Nhân văn - Hiện sinh không cố gắng hàn gắn hoặc chữa trị cảm giác lo lắng của con người mà thay vào đó là sự nỗ lực giúp đỡ TC tìm ra ý nghĩa của sự lo lắng mà họ đang trải nghiệm, nhấn mạnh đến khả năng của con người trong việc giải quyết những vấn đề của chính mình {40,83}

Phương pháp tiếp cận Nhân văn Hiện sinh quan niệm nhiều người (TC), tìm kiếm NTV vì họ có cảm giác bất an, không hài lòng, cáu giận vô cớ hoặc luôn thất bại trong việc đạt được những điều họ cảm thấy nên làm và cảm thấy có thể làm được. Nguyên nhân của điều này là do họ thiếu vắng những mối quan hệ tình người có ý nghĩa hoặc thiếu vắng những lý tưởng, mục tiêu quan trọng để phấn đấu.

Những người đề xướng phương pháp Nhân văn- Hiện sinh đã phát triển một kiểu tham vấn "tự giúp mình" để ứng phó với những vấn đề nan giải trong cuộc sống có thể áp dụng chung cho tất cả mọi người {13,62}

Người đầu tiên khởi xướng phương pháp tiếp cận NV-HS là nhà tâm lý trị liệu người Mỹ Rollo May (1950) với những nguyên tắc và phương pháp tham vấn nổi tiếng được xây dựng để chống lại cảm giác trống rỗng, trơ trẽn, loạn cương và cảm giác chán ghét xã hội bằng cách nhấn mạnh vào giá trị nhân bản của con người như tình yêu thương, sự sáng tạo, ý chí tự do.

Tiếp theo phải kể đến Carl Rogers với phương pháp tiếp cận thân chủ - trọng tâm ; Dugal Arbuckle, Vicktor Frankl với phương pháp tiếp cận hiện sinh; Fritz Perls với phương pháp tiếp cận Gestalt.

Hạt nhân cơ bản của phương pháp là khái niệm con người tổng thể. Quan điểm này cho rằng mỗi cá nhân tồn tại với tư cách con người tổng thể tham gia vào quá trình phát triển, biến đổi liên tục và đang trở thành chính nó {13,62}

Về quan niệm vấn đề của TC: mặc dù có những giới hạn của yếu tố di truyền và môi trường, con người vẫn luôn có sự tự lựa chọn: "Ta sẽ trở thành người như thế nào?" bằng cách thiết lập cho mình những giá trị riêng và tìm cách hiện thực hoá chúng thông qua những quyết định của chính bản thân. Cùng với sự tự do lựa chọn, chúng ta còn có gánh nặng của trách nhiệm vì khi người ta không nhận thức đầy đủ về toàn bộ mục tiêu, cách thức và hậu quả của hành động thì dễ cảm thấy lo âu, thất vọng. Mỗi người cũng dễ mặc cảm và đau khổ về tội lỗi đã bỏ qua những cơ hội để thực hiện toàn bộ tiềm năng của mình. Mục đích của phương pháp tiếp cận NV- HS là:

Giúp TC xác định tính tự do của riêng họ.

Giúp TC đánh giá lại kinh nghiệm và nhận ra sự phong phú về khả năng của bản thân.

Giúp TC nuôi dưỡng tính độc lập, lòng tự tin và phát hiện những cách thức để thực hiện đầy đủ nhất những tiềm năng của chính mình.

Sau đây chúng ta sẽ xem xét các kiểu tham vấn NV-HS điển hình.

- Phương pháp thân chủ trọng tâm hay phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân của Carl Rogers.

Carl Rogers (1902-1987) ,được đào tạo là một nhà TLH lâm sàng và giáo dục triết học, đã làm thay đổi một cách lớn lao bộ mặt của tâm lý trị liệu và tham vấn với việc phát triển phương pháp tiếp cận thân chủ gián tiếp. Những nét chính trong phương pháp tham vấn, trị liệu của ông hình thành trong mười năm kinh nghiệm làm việc với trẻ em và người lớn được trình bày trong cuốn "Tham vấn và tâm lý trị liệu" (Counseling and Psychotherapy) ( 1942), và đặt tên cho đường hướng trị liệu mới mà ông đã vạch ra trong cuối " Thân chủ - Trọng tâm trị liệu " (Client- Centered Therapy) ( 1951). Mười năm sau, với quyển sách " Tiến trình thành nhân " (On becoming a person) quan điểm của Rogers đã có ảnh hưởng lớn và rộng khắp thế giới. Cuốn sách này được coi như sách giáo khoa trong ngành Tham vấn và Tâm lý trị liệu.

Phương pháp tham vấn thân chủ trọng tâm lúc đầu được gọi là liệu pháp thân chủ trọng tâm (Carl Rogers, 1951) và sau đó được gọi là phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân (Person - Centered counseling), hướng tiếp cận của Carl Rogers không chỉ được coi là có ý nghĩa lớn lao trong công việc trợ giúp TC mà còn được xem là cách sống của con người {37,84}. Rogers tin rằng bản chất con người là thiện với những khuynh hướng tiến đến phát triển tiềm năng và xã hội hoá mà nếu đặt trong môi trường thuận lợi sẽ phát triển nhận thức và hiện thực hoá tiềm năng đầy đủ. {36,7}

Rogers giả thiết rằng mỗi người đều sở hữu những tiềm năng cho sự lớn lên, tiềm năng cho những hành vi có hiệu quả và có khuynh hướng tự hiện thực hoá những tiềm năng của mình. Sở dĩ một cá nhân nào đó (TC) phát triển những hành vi kém thích nghi là do sự tập nhiễm những mẫu ứng xử sai lệch {13,63}. Bởi vì mỗi cá nhân đều có nhu cầu mạnh mẽ được người khác chấp nhận, coi trọng nên anh ta hoặc cô ta có thể hành động một cách không tự nhiên, không thực tế và phát triển những cảm giác sai lệch về bản thân, về những điều mình mong muốn.

Theo Rogers, cá nhân có khuynh hướng một mặt làm cho phần lớn trường hợp những trải nghiệm mà mình sẽ sống trong thế giới bên ngoài phù hợp với khái niệm về cái mình, cái mình thực tế. Mặt khác nó nhằm làm cho khái niệm về cái mình sát với những tình cảm sâu xa tạo nên cho cái mình lý tưởng, tương ứng với những gì tiềm tàng. Như vậy cái mình hiện thực có nguy cơ không ăn khớp hoặc khi con người dưới áp lực của hoàn cảnh bắt buộc phải từ chối một số trải nghiệm hoặc con người tự thấy mình phải áp đặt những tình cảm và những giá trị hoặc những thái độ khiến cho cái mình hiện thực xa với cái mình lý tưởng.

Sự lo âu và những không thích nghi về tâm lý ít nhiều để lại hậu quả của sự mất ăn khớp giữa cái mình hiện thực và những trải nghiệm cuộc sống một bên và bên kia giữ cái mình hiện thực và hình ảnh lý tưởng mà bản thân con người đó có.{31,12}

Mục đích của phương pháp tham vấn tập trung vào cá nhân không phải là chữa trị cho TC hoặc tìm kiếm những nguyên nhân từ quá khứ mà cái chính là khuyến khích TC sự tự hiện thực hoá những tiềm năng của bản thân, tạo điều kiện dễ dàng cho sự phát triển tâm lý lành mạnh ở thân chủ. TC được xem như là một chủ thể có hiểu biết, họ phải được hiểu, được chấp nhận để NTV có thể cung cấp những loại hình giúp được tốt hơn.

C. Rogers đã phát biểu quan điểm của mình về mối tương giao giữa NTV và TC như sau:

Mối tương giao tôi thấy hữu ích là mối tương giao được đính tính bằng một sự trong suốt về phần tôi trong đó cảm quan thực sự của tôi biểu hiện rõ ràng, bằng sự chấp nhận người khác như một con người riêng biệt có quyền có giá trị riêng, và bằng một sự cảm thông sâu xa khiến tôi có thể nhìn thế giới riêng tư của người ấy qua con mắt của người ấy. Khi các điều kiện trên được thực hiện thì tôi trở thành một người bạn đồng hành của TC tôi, theo chân họ trong sự tìm kiếm chính mình mà bây giờ họ cảm thấy được tự do đảm nhiệm" {36,54}

Như vậy, theo C. Rogers trong tham vấn nếu NTV tạo được một mối tương giao định tính bằng: Một sự chân thực trong suốt, trong đó NTV sống với các cảm quan thực của mình; một sự nhiệt tình tôn trọng và chấp nhận TC như một cá nhân riêng biệt; một khả năng nhạy cảm để nhìn thế giới của TC y như TC nhìn họ, thì TC sẽ:

Kinh nghiệm và hiểu được những phương diện của chính mình mà trước đây bị đè nén.

Thấy mình trở nên hợp nhất hơn, có thể hành động hữu hiệu hơn.

Trở nên giống mẫu người mà mình ao ước muốn trở thành.

Tự chủ và tự tin hơn.

Trở nên người hơn, độc đáo hơn và sự bộc lộ hơn.

Hiểu người khác và chấp nhận người khác hơn.

Có thể đương đầu với những vấn đề của đời sống một cách thích đáng và dễ chịu hơn.{36,59}

Quan điểm của C. R về mối quan hệ giữa NTV và TC không chỉ có hiệu quả trong tham vấn mà còn rất hữu ích trong tất cả các mối tương giao nhân loại. Rogers tin rằng nếu NTV thì có thể đem lại những điều kiện thuận lợi như trên cho TC thì TC sẽ trở nên cởi mở và hiểu những nỗi đau, tổn thương trong quá khứ là do những mối quan hệ có điều kiện trong cuộc sống của họ. Thực tế thì những mối quan hệ tham vấn như thế này có thể giúp TC thay đổi những hành vi mà họ đã có trong quá khứ và trợ giúp TC chuyển từ những nhận thức sai lệch về bản thân đến nhận thức đúng đắn về chính họ. {36,50-85}

Nhiệm vụ của NTV theo phương pháp tiếp cận này là tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép TC học cách hành động để đạt đến sự tự khuyến khích và tự hiện thực hoá. Nhiệm vụ chính của NTV là giúp TC rỡ bỏ những "rào cản tâm lý" đang hạn chế sự bày tỏ khuynh hướng tích cực vốn có và giúp TC làm sáng tỏ, hiểu rõ bản thân và chấp nhận tình cảm riêng của mình.

Vì Rogers tin rằng TC có thể tìm ra giải pháp của riêng mình trong một môi trường ở đó có mối quan hệ tham vấn nồng ấm và thấu cảm nên ông xem chính mối quan hệ tham vấn như là một vật xúc tác cho sự thay đổi và tin rằng việc NTV tìm cách đưa ra lời giải thích thay cho TC là không thích hợp. Do đó ông hoàn toàn không chi phối quyết định của thân chủ mà sử dụng kỹ thuật lắng nghe tích cực và tiến hành phản hồi lại cho thân chủ điều gì mà thân chủ đã nói. {30,64}

Lắng nghe tích cực là một kỹ năng nền tảng trong tham vấn theo phương pháp thân chủ trọng tâm nói riêng và tham vấn nói chung. Nó đòi hỏi NTV phải lắng nghe bằng tất cả các giác quan, nghe bằng sự cảm nhận của xúc cảm, nghe bằng "trái tim", lắng nghe là dừng nói và dừng suy nghĩ. Lắng nghe tích cực thể hiện ở việc nghe và nhận hết được cảm xúc của đối tác, không suy luận, đánh giá, không liên hệ với cái này cái kia. Lắng nghe tích cực như một sự ngầm ẩn trả lời: tôi tin tưởng và tôn trọng vào sự nồng nhiệt, sự giá trị của bản thân bạn, tin tưởng vào con người bạn vào những điều bạn đang có. Cùng lúc đó TC cảm thấy như mình đã được nghe, được hiểu, được thông cảm.

Lắng nghe tích cực làm cho TC tự đi sâu vào mình, tự trải nghiệm cảm xúc của mình, lắng nghe trong sự khổ đau để từ đó hiểu mình hơn, hiểu vấn đề vướng mắc và có thể đi đến chấp nhận nó. Lắng nghe tích cực giúp TC giải phóng được mình khỏi sự kiềm chế của người khác, giải toả được xung đột, uẩn ức trong nội tâm, động viên TC tiếp tục nói nhiều hơn nữa đặc biệt chia sẻ hơn về cảm xúc đối với NTV.{2},{17}

Phản hồi là việc NTV nói lại bằng ngôn ngữ của mình hay nhắc lại lời của thân chủ một cách cô đọng để làm rõ hơn cảm xúc, ý nghĩa cảm nhận của TC và phải đạt được sự tán thành của TC.

Có hai cách phản hồi: Phản hồi theo cách lặp lại nội dung và phản hồi tâm tình. Phản hồi lặp lại nội dung là NTV diễn đạt lại những điều đã nghe thấy, quan sát thấy từ TC. Điều này giúp cho NTV không bị sao nhãng TC - trọng tâm và tiếp cận được với vấn đề của TC, đồng thời giúp TC dừng lại cô đọng, sắp xếp ý tưởng theo logic của họ. Phản hồi tâm tình nhấn mạnh cảm xúc, tình cảm mà TC bày tỏ trong đó hay ẩn dấu sau câu nói bằng cách nhắc lại cho TC nội dung tình cảm trong ngôn từ của họ. Cách phản hồi này dễ đạt được sự thông cảm, khuyến khích TC sẵn sàng chia sẻ và giúp TC xác định được cảm xúc đang hiện hữu trong họ.

Kỹ năng phản hồi phải dựa trên sự thông đạt vấn đề của TC. Nếu chưa thông đạt thì khó có được phản hồi tốt. Thông đạt là kỹ năng đòi hỏi NTV phải khai thông được sự hiểu biết của mình về điều TC đang nói và cố gắng bộc lộ điều đó một cách trung thực, nồng hậu, chân thành không đánh giá, phán xét khiến TC tự vệ.

Video liên quan

Related post


avatar

Home

Nhà thiết kế Web
View Articles

Tôi là admin trang go plus là một người có đam mê với Blogspot, kinh nghiệm 5 năm thiết kế ra hàng trăm mẫu Template blogpsot như" Bán hàng, bất động sản, landing page, tin tức...

Share this article